Skip to main content
Liên hệ ngay với chúng tôi để được
tư vấn và đặt lịch khám sớm.
Email: bvnhietdoitw@nhtd.vnPhone: 0395.135.099

Hotline: 0395.135.099

Tác giả: Nguyễn Tiến Dũng

NGUY KỊCH VÌ NẤM ASPERGILLUS TẤN CÔNG PHỔI SAU CÚM A, BỆNH NHÂN ĐƯỢC CỨU SỐNG KỊP THỜI

Khoảng ba ngày trước khi nhập viện, anh H.M.P (45 tuổi, ở Hà Nội) bị ngã giàn giáo, sưng bầm tím vùng cổ bàn chân trái, đau nhiều, khó vận động. Khi đi khám, anh được chẩn đoán phù nề tụ máu phần mềm, không có gãy xương và được kê thêm thuốc giảm đau – chống viêm (chưa rõ có chứa corticoid). Sau khi uống thuốc tại nhà, anh đỡ đau nhưng lại xuất hiện sốt, đau cơ, ho đờm và khó thở tăng dần.

Ngày 1/11, anh được đưa vào bệnh viện chuyên khoa phổi và được chẩn đoán viêm phổi do cúm A kèm suy hô hấp. Tình trạng diễn tiến nhanh, bệnh nhân phải đặt nội khí quản thở máy, chức năng thận suy giảm và phổi tổn thương nặng dù đã dùng kháng sinh bao phủ. Sau 11 ngày điều trị nhưng không cải thiện, bệnh nhân vẫn sốt kéo dài. Kết quả nuôi cấy phát hiện nhiễm nấm Aspergillus, anh được chuyển tới Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.

Tại Trung tâm Hồi sức tích cực, bác sĩ Hồng Kỳ cho biết bệnh nhân nhập viện trong tình trạng rất nặng: an thần, giãn cơ, thở máy, phải dùng thuốc vận mạch, cơ thể phù to, bụng chướng, dịch dạ dày xanh, nước tiểu vàng sậm; vùng cổ bàn chân trái bầm tím; loét lưng và loét cùng cụt độ 3; huyết áp tụt, phải duy trì noradrenalin. Khi soi phế quản và phát hiện giả mạc bám chắc tại nhánh phế quản phân thùy thùy trên trái, dễ chảy máu. Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn phổi trên nền viêm phổi cúm A nặng, suy hô hấp, suy thận cấp, suy tim và sung huyết. Bệnh nhân được lọc máu liên tục và điều trị thuốc kháng nấm. Tuy nhiên, việc điều trị gặp nhiều khó khăn do bệnh nhân suy thận và có bệnh lý tim mạch, khiến khả năng hấp thu thuốc giảm, việc phối hợp điều trị phức tạp hơn.
Sau một ngày, chức năng phổi bắt đầu cải thiện. Nhưng đến ngày thứ bảy, bệnh nhân lại sốt trở lại 38,8°C, xuất hiện tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn khác tấn công, liều thuốc vận mạch phải tăng lên.
Qua 10 ngày điều trị tích cực và hồi sức tối ưu, bệnh nhân dần ổn định, thoát sốc, chức năng thận hồi phục và đã tỉnh táo. Tuy vậy, anh vẫn cần tiếp tục điều trị thuốc kháng nấm kéo dài ít nhất 6 tuần.
ThS.BS Phạm Văn Phúc – Phó Giám đốc Trung tâm Hồi sức tích cực – cho biết: “Bệnh cúm không chỉ gây viêm phổi do virus mà còn làm suy yếu “hàng rào bảo vệ” của đường hô hấp, tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm có cơ hội tấn công. Một trong những biến chứng nguy hiểm nhất là nhiễm nấm Aspergillus xâm lấn. Nấm Aspergillus tồn tại phổ biến trong môi trường, thường vô hại với người khỏe mạnh, nhưng ở bệnh nhân cúm nặng – đặc biệt là người có bệnh nền, suy giảm miễn dịch, hoặc phải thở máy – nấm có thể xâm nhập sâu vào phổi, gây tổn thương lan rộng và suy hô hấp nhanh chóng. Bội nhiễm, đặc biệt là Aspergillus xâm lấn, là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân cúm. Người bệnh có thể diễn tiến nặng đột ngột, sốt kéo dài, khó thở tăng, hoặc hình ảnh phổi xấu đi dù đã điều trị kháng sinh. Việc phát hiện sớm bằng các xét nghiệm chuyên sâu và điều trị kịp thời có vai trò quan trọng trong điều trị.”
Bác sĩ Phúc khuyến cáo: người mắc cúm nếu sốt kéo dài, khó thở tăng dần, hoặc tình trạng không cải thiện sau 3–5 ngày điều trị cần đến ngay cơ sở y tế để được đánh giá bội nhiễm. Việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời có ý nghĩa quyết định với những trường hợp bệnh giúp tránh được các biến chứng nguy hiểm. Những người có bệnh nền, suy giảm miễn dịch càng phải cảnh giác, nên tiêm vaccine phòng cúm hằng năm và đi khám sớm khi có triệu chứng bất thường.

NHẬP VIỆN VÌ CHẢY DỊCH VÀNG TỪ VẾT MỔ CŨ, CÔ GÁI 20 TUỔI BẤT NGỜ PHÁT HIỆN KHỐI U VÙNG TIỂU KHUNG “KHỔNG LỒ”

Cô gái Đ.T.V (20 tuổi ở Hưng Yên) từng bị chấn thương sọ não do tai nạn giao thông vào tháng 8/2025 và phải phẫu thuật lấy khối máu tụ, ghép xương sọ tại Bệnh viện tuyến tỉnh. Sau mổ, sức khỏe em ổn định, vết mổ liền tốt.

Tuy nhiên, chỉ hai tháng sau, V xuất hiện chảy dịch vàng từ vết mổ cũ vùng thái dương trái. Dù không sốt, không đau đầu hay buồn nôn, gia đình vẫn đưa em đi kiểm tra và phát hiện một lỗ rò 5 mm kèm tình trạng tiêu xương vùng trán thái dương. Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm trùng vết mổ sau chấn thương sọ não. Sau 7 ngày điều trị nhưng không cải thiện, gia đình xin chuyển tuyến để phẫu thuật lại. Bệnh nhân tiếp tục được ghép xương, nhưng các ổ tiêu xương lớn, không tương thích với mảnh ghép. Đáng chú ý, khi đánh giá tổng trạng, bác sĩ phát hiện thêm một khối u lớn vùng tiểu khung. Nhận thấy nguy cơ nhiễm trùng tiến triển, các bác sĩ tuyến dưới đã quyết định chuyển V đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương để tiếp tục điều trị.

Nhập viện tại Khoa Nhiễm khuẩn tổng hợp, bệnh nhân bắt đầu sốt cao trên 38,5oC. Xét nghiệm cho thấy V dương tính với sốt Dengue, đồng thời vẫn còn nhiễm trùng vết mổ sọ não và khối u tiểu khung chưa được xử lý. Sau 20 ngày ưu tiên điều trị nhiễm trùng và sốt Dengue, khi tình trạng ổn định, bệnh nhân được chuyển sang khoa Ngoại Tổng hợp – Tiết niệu và Nam học để hội chẩn phẫu thuật loại bỏ khối u kích thước lớn, nghi ngờ ác tính.

Khám lâm sàng ghi nhận một khối bất thường lớn vùng hạ vị. Hình ảnh chụp cắt lớp vi tính cho thấy khối u vùng hạ vị kích thước 110x163x244 mm, bờ không đều, bên trong có nốt vôi hóa và dịch tự do ổ bụng. Bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật cắt bỏ khối u.
Ngay khi vừa mở ổ bụng, bác sĩ Trần Duy Hiến không khỏi bất ngờ trước khối u buồng trứng khổng lồ chiếm gần như toàn bộ vùng bụng dưới. Khối u căng tròn, phì đại bất thường ở hai bên vòi trứng, chèn ép tử cung. Do tổn thương lan rộng và tránh nguy cơ bỏ sót tế bào di căn, ê kíp buộc phải cắt bỏ toàn bộ buồng trứng, vòi trứng, tử cung và mạc nối lớn. Ca mổ kéo dài 3 giờ. Khối u được lấy trọn vẹn với trọng lượng ~ 2,9 kg và kích thước là 30 x 24 cm.
 
Theo bác sĩ Trần Duy Hiến – khoa Ngoại Tổng hợp, Tiết niệu và Nam học, ung thư buồng trứng là một trong những bệnh lý nguy hiểm ở phụ nữ bởi các triệu chứng giai đoạn đầu thường rất mơ hồ và dễ bị bỏ qua. Không ít trường hợp chỉ được phát hiện khi bệnh đã tiến triển muộn.
Vì vậy, người dân – đặc biệt là phụ nữ trong độ tuổi sinh sản – không nên chủ quan với sự bất thường kể cả những dấu hiệu mơ hồ vùng tiểu khung. Nhiều khối u ban đầu rất âm thầm, hầu như không có triệu chứng rõ ràng, đến khi phát hiện đã có kích thước lớn, gây chèn ép cơ quan và buộc phải can thiệp phẫu thuật rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản và sức khỏe lâu dài.
Việc tầm soát định kỳ bằng siêu âm, khám phụ khoa và kiểm tra sức khỏe tổng quát cần được duy trì hằng năm để phát hiện sớm bất thường, xử trí kịp thời và giảm thiểu tối đa các biến chứng nguy hiểm. Chủ động đi khám khi có dấu hiệu bất thường như đau bụng dưới, đầy bụng, rối loạn kinh nguyệt hay sờ thấy khối bất thường cũng rất quan trọng, giúp bác sĩ chẩn đoán đúng và điều trị sớm, tránh những ca bệnh đáng tiếc như trên.
Theo bác sĩ Trần Duy Hiến – khoa Ngoại tổng hợp – Tiết niệu và Nam học cho biết : Ung thư buồng trứng là một loại ung thư nguy hiểm nhưng các triệu chứng thường mơ hồ, không rõ ràng ở giai đoạn đầu, khiến việc chẩn đoán thường muộn. Các triệu chứng thường không đặc hiệu và có thể bị nhầm lẫn với các bệnh lý tiêu hóa hoặc phụ khoa khác. Các dấu hiệu phổ biến bao gồm:
1️⃣• Đau hoặc khó chịu ở vùng bụng/chậu: Cảm giác nặng, tức hoặc đau mơ hồ vùng bụng dưới, thắt lưng hoặc đùi.
2️⃣• Rối loạn tiêu hóa: Chán ăn, ăn nhanh no, đầy hơi, khó tiêu, buồn nôn.
3️⃣• Thay đổi thói quen đi vệ sinh: Đi tiểu thường xuyên hoặc tiểu khó, táo bón.
4️⃣• Thay đổi về thể chất: Sụt cân không rõ nguyên nhân, tăng chu vi vòng bụng.
5️⃣• Các triệu chứng khác: Chảy máu âm đạo bất thường, đau khi quan hệ tình dục, mệt mỏi kéo dài.
🔥Nguyên nhân chính xác của ung thư buồng trứng chưa được xác định rõ ràng, nhưng các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh bao gồm:
1️⃣• Tuổi tác: Nguy cơ cao nhất ở phụ nữ trên 50 tuổi, đặc biệt sau mãn kinh.
2️⃣• Tiền sử gia đình: Có người thân (mẹ, chị em gái) mắc ung thư buồng trứng, vú, hoặc đại trực tràng, đặc biệt liên quan đến gen BRCA1 và BRCA2.
3️⃣• Yếu tố nội tiết: Không mang thai hoặc có thai muộn.
4️⃣• Lối sống: Béo phì, hút thuốc lá.
👉👉👉Điều quan trọng là việc phát hiện sớm ung thư buồng trứng thường mang lại cơ hội điều trị và tiên lượng tốt hơn rất nhiều cho người bệnh.

NGƯỜI ĐÀN ÔNG BỊ MỜ MẮT ĐỘT NGỘT, PHÁT HIỆN GIANG MAI THẦN KINH THỂ VIÊM MÀNG NÃO KÈM GIANG MAI MẮT

Khoảng hai tháng trước, trong lúc đang sinh hoạt bình thường tại nhà, ông N.B.Đ (65 tuổi ở Hà Nội), đột ngột đau đầu, nhức hai bên hốc mắt, mắt mờ không nhìn rõ. Gia đình đưa ông đến bệnh viện khoa mắt, tại đây bác sĩ nghi ngờ bệnh lý nhiễm khuẩn nên chuyển ông sang bệnh viện chuyên khoa điều trị,

Kết quả thăm khám cho thấy ông mắc giang mai thần kinh, viêm màng não, viêm màng bồ đào. Sau một tháng điều trị nhưng triệu chứng không cải thiện, ông xin chuyển đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.
Tại Khoa Nhiễm khuẩn tổng hợp, Bác sĩ Kim Ngọc Hào cho biết bệnh nhân nhập viện trong tình trạng choáng, đau đầu nhiều, mắt mờ. Xét nghiệm khẳng định ông dương tính với Treponema pallidum, vi khuẩn gây bệnh giang mai. Bệnh nhân được chẩn đoán viêm màng não do vi khuẩn giang mai kèm đái tháo đường type 2.
Theo các bác sĩ, bệnh nhân Đ hiện đang được điều trị kháng sinh theo đúng phác đồ và sức khỏe đã dần ổn định. Tuy nhiên, quá trình điều trị giang mai thần kinh thường kéo dài và gặp nhiều khó khăn do vi khuẩn Treponema pallidum có khả năng xâm nhập sâu vào hệ thần kinh trung ương. Người bệnh lại có bệnh lý nền đái tháo đường type 2 khiến việc đáp ứng thuốc điều trị chậm, nguy cơ biến chứng cũng cao hơn. Ngoài ra, các tổn thương ở mắt và thần kinh đòi hỏi theo dõi sát sao, điều chỉnh thuốc liên tục để vừa kiểm soát nhiễm trùng, vừa hạn chế tối đa ảnh hưởng lâu dài lên thị lực và chức năng thần kinh. Vì vậy, bệnh nhân cần tuân thủ tuyệt đối liệu trình và được chăm sóc toàn diện, phối hợp giữa nhiều chuyên khoa trong suốt quá trình điều trị.
PGS.TS Nguyễn Kim Thư, Trưởng khoa Nhiễm khuẩn tổng hợp cho biết giang mai thần kinh là một trong số những biểu hiện nặng của giang mai. Bệnh giang mai là một bệnh nhiễm khuẩn do xoắn khuẩn Treponema pallidum gây ra. Bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục không an toàn, truyền máu và lây truyền từ mẹ sang con. Bệnh giang mai tiến triển qua 3 giai đoạn: giai đoạn tiền ẩn, giai đoạn xuất hiện các tổn thương da và niêm mạc, giai đoạn xoắn khuẩn đã xâm nhập và khu trú vào phủ tạng.
Khi vi khuẩn Treponema pallidum tấn công vào não hoặc tủy sống, chúng gây tổn thương hệ thống thần kinh trung ương, dẫn đến nhiều triệu chứng nguy hiểm, làm suy giảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống, thậm chí đe dọa tính mạng nếu không được điều trị kịp thời. Giang mai thần kinh xảy ra ở giai đoạn 3 của bệnh giang mai.
Để giảm nguy cơ mắc bệnh và tránh những biến chứng nguy hiểm, các bác sĩ khuyến cáo: Mỗi người cần duy trì lối sống tình dục an toàn, luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, chung thủy một vợ một chồng và không dùng chung các vật dụng cá nhân có thể dính dịch tiết. Cần hạn chế rượu bia và chất kích thích để tránh hành vi tình dục không an toàn; phụ nữ mang thai nếu phát hiện mắc giang mai cần báo ngay cho bác sĩ để được hướng dẫn điều trị và phòng lây truyền sang con. Mỗi người cần khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần hoặc theo lịch hẹn của bác sĩ, kết hợp chế độ ăn uống lành mạnh và tập luyện đều đặn để tăng cường miễn dịch. Dù đã được điều trị, nguy cơ tái nhiễm bệnh vẫn tồn tại nên người bệnh cần tuân thủ đúng liệu trình và các biện pháp phòng bệnh. Khi xuất hiện triệu chứng nghi ngờ hoặc từng tiếp xúc nguy cơ cao, hãy đến bệnh viện kiểm tra và thông báo cho bạn tình để cùng tầm soát, tránh để bệnh tiến triển thành giang mai thần kinh.

HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ DIỄN GIẢI KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM BỆNH TRUYỀN NHIỄM

Sáng ngày 28/11/2025, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương đã tổ chức Hội thảo Khoa học “Diễn giải kết quả xét nghiệm bệnh truyền nhiễm” với sự tham gia của đông đảo chuyên gia, nhà khoa học và các bác sĩ đầu ngành đến từ nhiều cơ sở y tế trên toàn quốc. Hội thảo nhằm cập nhật chuyên môn, tăng cường chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn trong diễn giải kết quả xét nghiệm – một khâu then chốt trong chẩn đoán và điều trị các bệnh truyền nhiễm.

Phát biểu khai mạc hội thảo, TS.BS Phạm Ngọc Thạch – Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, Chủ tịch Hội Truyền nhiễm Việt Nam nhấn mạnh: “Bệnh truyền nhiễm luôn là thách thức lớn đối với hệ thống y tế toàn cầu và quốc gia. Trong bối cảnh dịch tễ học thay đổi nhanh chóng, sự xuất hiện của các tác nhân gây bệnh mới và biến chủng kháng thuốc, việc chẩn đoán chính xác và kịp thời càng trở nên vô cùng quan trọng.” TS. Thạch cũng cho biết Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương tiếp tục giữ vai trò tuyến cuối chuyên khoa truyền nhiễm, là đơn vị đào tạo – hỗ trợ chuyên môn – chỉ đạo tuyến cho các bệnh viện trong cả nước, đồng thời không ngừng hoàn thiện và phát triển phòng xét nghiệm tham chiếu đạt chuẩn quốc tế. Ông nhấn mạnh rằng: “Thực hiện xét nghiệm đã khó, nhưng việc diễn giải đúng kết quả xét nghiệm còn phức tạp hơn nhiều. Nếu thiếu hiểu biết sâu sắc về ý nghĩa kỹ thuật và lâm sàng, nguy cơ nhầm lẫn giữa dương tính giả/âm tính giả và chẩn đoán sai có thể dẫn đến hậu quả nặng nề đối với người bệnh và sức khỏe cộng đồng.”

TS.BS. Phạm Ngọc Thạch – Giám đốc Bệnh viện phát biểu khai mạc Hội thảo

Quang cảnh tại Hội trường tổ chức

Tại hội thảo, 4 báo cáo viên đã trình bày các tham luận quan trọng và nhận được sự quan tâm lớn từ các đại biểu: BSCKII. Vũ Thị Thu Hương – Giám đốc Trung tâm Khám chữa bệnh theo yêu cầu và Quốc tế – chia sẻ các ca bệnh thực tế liên quan đến viêm gan vi rút B, trong đó nhấn mạnh các tình huống xét nghiệm khó, sự cần thiết đánh giá toàn diện các chỉ dấu huyết thanh học và chỉ định tiêm phòng phù hợp với từng nhóm đối tượng nguy cơ.

BSCKII. Đinh Văn Huy – Trưởng khoa Khám bệnh và Điều trị ngoại trú – trình bày tham luận “Chẩn đoán viêm gan B – Tầm quan trọng của xét nghiệm”. BS. Huy đưa ra số liệu đáng chú ý: hiện có khoảng 254 triệu người trên thế giới sống chung với HBV, mỗi năm hơn 1 triệu ca tử vong do biến chứng. Việt Nam nằm trong nhóm 10 quốc gia có tỷ lệ nhiễm HBV cao nhất, với khoảng 80.000 ca xơ gan, ung thư gan và 40.000 ca tử vong mỗi năm. Ông khuyến nghị mở rộng sàng lọc, đơn giản hóa tiêu chuẩn chẩn đoán và sử dụng HBV DNA độ nhạy cao nhằm nâng cao hiệu quả điều trị.

TS.BS Văn Đình Tráng – Trưởng khoa Vi sinh – Sinh học phân tử – cập nhật quy trình xét nghiệm HIV từ sàng lọc đến khẳng định và theo dõi tải lượng virus. TS. Tráng nhấn mạnh hiệu quả vượt trội của xét nghiệm thế hệ 4, giúp rút ngắn “cửa sổ nhiễm” và vai trò quan trọng của xét nghiệm tải lượng HIV trong đánh giá đáp ứng điều trị. Việc thực hiện chiến lược xét nghiệm và biện luận kết quả cần theo hướng dẫn của Bọ Y tế.

PGS.TS Trần Văn Giang – Viện phó Viện Đào tạo, Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp – nhấn mạnh việc tối ưu hóa xét nghiệm bệnh truyền nhiễm, tăng cường truyền thông cộng đồng, xây dựng hệ thống y tế chủ động dựa trên phòng ngừa – sàng lọc – phát hiện sớm, và sự phối hợp chặt chẽ giữa các tuyến y tế.

Trong phần thảo luận, các đại biểu tập trung phân tích những ca bệnh khó, ca xét nghiệm có kết quả phức tạp và các tình huống lâm sàng thực tế, góp phần tăng cường kỹ năng diễn giải kết quả xét nghiệm để đưa ra quyết định điều trị chính xác và an toàn cho người bệnh.

Hội thảo một lần nữa khẳng định vai trò đầu ngành của Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong lĩnh vực truyền nhiễm – hồi sức – phòng chống dịch và đào tạo cán bộ y tế, hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

NAM SINH BỊ NHIỄM KHUẨN TỤ CẦU VÀNG NẶNG SAU VẾT CẮN CỦA LỢN NUÔI

Bệnh nhân L.V.H (sinh năm 2011, dân tộc Thái,

ở Sơn La) được chuyển đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng viêm xương đùi, áp xe cơ, viêm phổi, tràn dịch màng phổi và không đi lại được, Trước đó, cháu hoàn toàn khỏe mạnh.

Theo lời kể của gia đình, trong thời gian ở nhà với ông bà do bố mẹ đi làm xa, H. bị lợn của gia đình cắn vào vùng đầu gối chân phải. Do chủ quan, vết thương không được làm sạch, gia đình cũng không đưa cháu đến cơ sở y tế để thăm khám. Bảy ngày sau, cháu bắt đầu sốt cao liên tục, vị trí vết cắn sưng nóng đỏ và hạn chế vận động khi cháu mới được đưa đến bệnh viện huyện điều trị. Tại bệnh viện huyện, tình trạng của cháu tiếp tục chuyển nặng và được chẩn đoán sốc nhiễm khuẩn nên bệnh nhi được chuyển lên Bệnh viện Nhi Trung ương.

Kết quả thăm khám và xét nghiệm cho thấy cháu bị nhiễm vi khuẩn tụ cầu vàng, đường vào là vị trí bị lợn cắn (tên khoa học: Staphylococcus aureus), kèm tổn thương hai xương đùi, viêm xương đùi phải, áp xe cơ, viêm phổi, tràn dịch màng. Sau 20 ngày điều trị, bệnh nhân có giảm sốt nhưng vẫn đau nhiều khớp háng hai bên, không đi lại được nên tiếp tục chuyển tuyến đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.

Tại đây, bệnh nhi được chẩn đoán: Nhiễm khuẩn huyết do tụ cầu vàng có viêm xương tủy- áp ce cơ- viêm phổi màng phổi, sau 11 ngày điều trị bằng kháng sinh đặc hiệu và phục hồi chức năng, cháu đã giảm sốt, hết tràn dịch màng phổi và có thể đi lại. Các tổn thương ở xương vẫn cần tiếp tục điều trị và theo dõi dài hơn nhưng hiện nay chưa phải can thiệp ngoại khoa.

Bác sĩ Bùi Hiền – khoa Nhi, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết: nếu tiếp tục đáp ứng tốt với phác đồ điều trị, khoảng 6–8 tuần bệnh nhi có thể xuất viện.
Theo bác sĩ Hiền: Vi khuẩn tụ cầu vàng (tên khoa học là Staphylococcus aureus) là vi khuẩn có độc lực cao, khả năng kháng nhiều loại kháng sinh, nếu người bệnh không được chẩn đoán và điều trị đúng dễ gây các biến chứng nặng nề, có thể dẫn đến tử vong. Vi khuẩn Staphylococcus aureus bình thường cư trú trên da và niêm mạc; khi gặp điều kiện thuận lợi như vết thương hở, vệ sinh kém hoặc sức đề kháng yếu, chúng có thể xâm nhập vào cơ thể gây nhiễm khuẩn khu trú như viêm mô bào, áp xe cơ, nặng hơn thâm nhập vào máu gay nhiễm khuẩn huyết và tổn thương đa cơ quan…Với những trường hợp đã được chẩn đoán nhiễm tụ cầu vàng, cần tuyệt đối tuân thủ điều trị, dùng đúng loại và đủ liều kháng sinh theo chỉ định để tránh nguy cơ kháng thuốc và biến chứng nặng.
Để phòng tránh nhiễm khuẩn tụ cầu vàng, người dân cần chú ý giữ vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn. Khi có vết thương xây xước hay bị động vật cắn, cần được làm sạch ngay, sát khuẩn, che phủ bằng băng/ gạc vô khuẩn và thăm khám sớm nếu xuất hiện dấu hiệu sưng nóng đỏ, chảy mủ hoặc sốt. Việc chủ quan tự xử trí tại nhà có thể khiến nhiễm trùng lan rộng, dẫn tới biến chứng nguy hiểm, điều trị kéo dài, tốn kém.” Bác sĩ Hiền nhấn mạnh.

PHẪU THUẬT THÀNH CÔNG 2 CA LIỆT ĐÁM RỐI THẦN KINH CÁNH TAY SAU TAI NẠN GIAO THÔNG

Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vừa thực hiện thành công hai ca phẫu thuật vi phẫu chuyển thần kinh cho thanh niên trẻ bị liệt đám rối thần kinh cánh tay sau tai nạn giao thông, mở ra cơ hội phục hồi chức năng tay cho các bệnh nhân bị tổn thương nghiêm trọng.

Hai ca bệnh điển hình

Bệnh nhân đầu tiên là nam bệnh nhân 21 tuổi ở Hà Nội, nhập viện sau tai nạn hơn 2 tháng, tay phải liệt hoàn toàn từ vai, khuỷu, cổ tay đến các ngón tay. Các bác sĩ chẩn đoán “liệt toàn bộ đám rối thần kinh cánh tay C5-T1”, khiến cánh tay mất hoàn toàn chức năng vận động và cảm giác.
Nam bệnh nhân thứ hai, 29 tuổi, vào viện sau 6 tháng do tai nạn giao thông va đập vai vào thành ô tô. Khi vào viện, bệnh nhân bị chấn thương khớp vai – đụng đập động mạch dưới đòn phải – gẫy xương quay phải. Bệnh nhân may mắn được phẫu thuật kịp thời cứu sống cánh tay tại một cơ sở y tế gần nhà. Cánh tay được cứu sốngtuy vẫn nắm được bàn tay nhưng không gấp được khuỷu và không dạng vai – dấu hiệu liệt thân trên đám rối thần kinh C5-C7. Cả hai bệnh nhân trước đó từng hy vọng tình trạng này sẽ được cải thiện, nhưng chờ đợi chỉ làm cơ teo dần và mất cơ hội điều trị hiệu quả.
Bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương được thực hiện các thăm dò chức năng và chẩn đoán hình ảnh chuyên sâu. Kết quả cho thấy cả hai trường hợp đều bị tổn thương đám rối thần kinh kiểu nhổ rễ các dây thần kinh khỏi tủy sống.
Phẫu thuật vi phẫu – giải pháp duy nhất
Theo TS.BS Dương Mạnh Chiến, khi rễ thần kinh bị giật đứt sát tủy, dây thần kinh không thể tự phục hồi. Giải pháp duy nhất là phẫu thuật vi phẫu chuyển thần kinh, lấy một phần dây thần kinh lành, tách dưới kính hiển vi và chuyển sang cho dây thần kinh bị liệt.
Trong mổ, ê-kíp xác định chính xác “bó cho – bó nhận” bằng kích thích điện thần kinh cơ . Mỗi mũi khâu chỉ bằng sợi chỉ mảnh hơn sợi tóc, yêu cầu độ chính xác rất cao. Ca thứ nhất kéo dài gần 7 giờ, ca thứ hai khoảng 5 giờ, phản ánh độ phức tạp cao của kỹ thuật.
TS.BS Chiến nhấn mạnh: đây là nhóm kỹ thuật khó bậc nhất, đòi hỏi đánh giá tổn thương chính xác, lập kế hoạch chi tiết và kỹ thuật vi phẫu tinh vi. Chỉ một sai lệch nhỏ cũng có thể khiến thần kinh không tới được cơ đích.
Sau mổ, sợi thần kinh mọc với tốc độ khoảng 1-3 mm/ngày. Người bệnh trải qua giai đoạn rung cơ nhẹ trước khi hình thành vận động chủ động. Thời điểm phục hồi thường bắt đầu từ 3–6 tháng và cần tập luyện và phục hồi chức năng liên tục. Hiện cả hai bệnh nhân đã ổn định và đang trong quá trình phục hồi chức năng.
Cảnh báo cho cộng đồng
Liệt đám rối thần kinh cánh tay thường xảy ra ở người trẻ, ngay cả sau những tai nạn tưởng “nhẹ”. TS.BS Chiến cảnh báo: nếu không phẫu thuật trong 12 tháng đầu, cơ đã teo sẽ khiến phẫu thuật không còn hiệu quả. Vì vậy, sau tai nạn giao thông, nếu xuất hiện dấu hiệu yếu tay, tê kéo dài, không dạng được vai, không gấp được khuỷu… cần khám chuyên khoa ngay trong “thời gian vàng”.
Hai ca phẫu thuật thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận diện sớm tổn thương đám rối và can thiệp vi phẫu đúng thời điểm, giúp người trẻ lấy lại chức năng tay, tránh tàn phế suốt đời. Đây cũng là bước tiến quan trọng, mở ra cơ hội cho những trường hợp tương tự trong tương lai.

NAM BỆNH NHÂN 39 TUỔI Ở THANH HÓA NHIỄM WHITMORE, ÁP XE ĐA TẠNG

Cuối tháng 8 vừa qua, anh L.D.T.A (39 tuổi ở Thanh Hóa) bắt đầu xuất hiện các cơn sốt cao liên tục. Đi khám, anh được chẩn đoán mắc bệnh Whitmore do vi khuẩn B.pseudomallei.

Anh T.A được điều trị tại một cơ sở y tế trong 2 tuần. Khi tình trạng đã tạm ổn, anh được chuyển về tuyến dưới tiếp tục theo dõi và điều trị. Tuy nhiên, chỉ sau 2 ngày khi dừng thuốc của đợt điều trị, bệnh nhân lại sốt cao 39oC, người li bì, sưng nóng đỏ đau.
Ngày 20/10, gia đình đưa anh đến bệnh viện trong tình trạng sốc nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết do B.pseudomallei. Khám lâm sàng ghi nhận áp xe đa ổ ở phổi, thận, gan, cơ, thắt lưng, suy đa tạng. Sau 1 tháng điều trị tại cơ sở y tế này không thuyên giảm, anh được chuyển đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.
Tại Khoa Cấp cứu, Bác sĩ Lê Sơn Việt cho biết: bệnh nhân nhập viện trong tình trạng rất nặng sốt, sốc nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn huyết, thở ô xy kính, áp xe đa ổ đa tạng. Trong đó, ổ áp xe phổi lớn nhất khoảng 4cm, ổ áp xe gan 3cm; đồng thời có nhiều ổ áp xe thận, áp xe cơ thắt lưng, vùng đùi phải và bẹn trái. Dịch dẫn lưu ổ áp xe cạnh sống có mủ lẫn máu.
Bác sĩ Việt nhận định: Bệnh nhân có bệnh lý nền, khiến hệ miễn dịch suy yếu, làm diễn biến bệnh Whitemore nặng và đáp ứng với kháng sinh kém – kể cả với meropenem, loại kháng sinh mạnh đang được sử dụng. Việc điều trị vì vậy rất phức tạp, tiên lượng dè dặt.
Bác sĩ Việt nhấn mạnh: Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi khuẩn B.pseudomallei có thể đi vào máu gây nhiễm khuẩn huyết và lan rộng khắp cơ thể gây viêm, hình thành các ổ áp xe tại nhiều cơ quan khác nhau như phổi, gan, lách, hệ thần kinh trung ương, da….. Vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể qua da bị trầy xước, niêm mạc, đường hô hấp (hít phải bụi, giọt nước nhiễm khuẩn) hoặc đường tiêu hóa (uống nước, ăn thực phẩm nhiễm khuẩn). Những người có công việc tiếp xúc thường xuyên với đất, nước bị ô nhiễm có nguy cơ cao mắc bệnh như nông dân, người lao động xây dựng, người làm vườn….
Bệnh Whitmore do vi khuẩn B.pseudomallei có thể xâm nhập qua da, niêm mạc, đường hô hấp hoặc tiêu hóa, gây nhiễm khuẩn nặng, dễ tái phát. Để phòng bệnh, người dân cần hạn chế tiếp xúc với đất, nước bẩn, đặc biệt khi có vết thương hở; luôn đeo ủng, găng tay khi làm việc ngoài đồng ruộng, ao hồ; rửa sạch và sát khuẩn vết thương kịp thời; uống nước đã đun sôi, ăn chín; giữ môi trường sống và nơi làm việc sạch sẽ. Những người có bệnh mạn tính hoặc hệ miễn dịch suy giảm cần đặc biệt thận trọng. Khi xuất hiện sốt cao tái diễn, đau nhức cơ hoặc ổ áp xe sưng nóng đỏ, cần đến ngay cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Hiện chưa có vắc xin phòng bệnh và bệnh không lây từ người sang người.

NỖ LỰC CỨU NGÓN TAY BỊ LÓC DA CHO NAM THANH NIÊN 18 TUỔI

Vừa qua, L.V.T (18 tuổi, dân tộc Thái, quê Sơn La) theo bố xuống Hà Nội làm thêm tại một cơ sở cơ khí sửa chữa sắt thép. Khi đang vận hành máy cắt, lưỡi cưa bất ngờ trượt, cắt sâu vào bàn tay trái, gây lóc toàn bộ da và mô mềm ở ba ngón: cái, trỏ và giữa.

Bệnh nhân được đưa ngay tới cơ sở y tế gần đó. Kết quả thăm khám ban đầu cho thấy không gãy xương, nhưng diện lóc da rộng. Các bác sĩ đã khâu bảo tồn cả ba ngón. Tuy nhiên, sau đó, ngón trỏ và ngón giữa xuất hiện tình trạng đổi màu, tím đen – dấu hiệu hoại tử do mất cấp máu.
Bệnh nhân được ê-kíp Tạo hình – Thẩm mỹ, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương tiếp nhận trong tình trạng: ngón cái tiến triển tốt, vết thương liền tương đối; ngón giữa hoại tử phần búp ngón; ngón trỏ hoại tử khô gần toàn bộ đốt xa và phần lớn đốt giữa.
Bác sĩ Nguyễn Ngọc Linh – phẫu thuật viên chính – đánh giá: Đây là giai đoạn muộn, khiến việc bảo tồn toàn bộ ngón trỏ rất khó khăn. “Nếu được xử trí kịp thời trong thời điểm vàng ngay sau chấn thương, khả năng cứu toàn bộ ngón tay sẽ cao hơn nhiều. Ngược lại, bệnh nhân đứng trước nguy cơ mất hoàn toàn cả ngón trỏ và ngón giữa. Bởi trong lúc mổ, chúng tôi phát hiện xương đốt xa và đốt giữa của ngón trỏ đã hoại tử, đốt xa của ngón giữa cũng không còn sống. Do đó, chúng tôi buộc phải cắt bỏ phần mô hoại tử để ngăn tình trạng lan rộng, đồng thời cố gắng bảo tồn tối đa các cấu trúc còn sống.”
Hiện tại, sau phẫu thuật và một thời gian theo dõi, bàn tay của bệnh nhân đã dần ổn định trở lại.
BS Linh khẳng định: Ngón trỏ và ngón giữa giữ vai trò then chốt trong các thao tác tinh vi của bàn tay – đặc biệt ngón trỏ đảm nhiệm gần như một nửa chức năng kẹp, phối hợp với ngón cái tạo thế “càng cua” khi cầm bút, cầm đũa hoặc nắm giữ đồ vật. Việc mất ngón trỏ sẽ ảnh hưởng đáng kể đến khả năng lao động, học tập và sinh hoạt hằng ngày. Chính vì vậy, ở bệnh nhân trẻ, sức khỏe tổng thể tốt, ê-kíp đã nỗ lực tối đa để bảo tồn cấu trúc và chức năng.
BS Nguyễn Ngọc Linh nhấn mạnh, yếu tố thời gian đóng vai trò quyết định: “Tổn thương bàn tay dạng lóc da, dập nát đòi hỏi đánh giá sớm tình trạng cấp máu và xử trí ngay khi mô có dấu hiệu thiếu nuôi dưỡng. Nếu để muộn, xương phơi ra ngoài sẽ nhanh chóng hoại tử, làm giảm đáng kể khả năng bảo tồn.”
Theo bác sĩ Linh: Khi làm việc với máy móc cơ khí, người dân luôn cần tuân thủ an toàn lao động, sử dụng đầy đủ phương tiện bảo hộ. Với vết thương lóc da – cần đánh giá cấp máu và theo dõi sát 2–3 ngày đầu; nếu vùng da đổi màu, lạnh, mất cảm giác, phải xử trí ngay. Nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa có khả năng phẫu thuật tạo hình vi phẫu để tăng cơ hội bảo tồn chi thể, đặc biệt ở trẻ em và thanh thiếu niên – những người còn cả tương lai học tập và lao động phía trước.

ĐẮP THUỐC LÁ ĐỂ CHỮA NGỨA, CỤ BÀ NHẬP VIỆN VỚI TÌNH TRẠNG DA BONG VẢY KHẮP NGƯỜI

Bệnh nhân Dương Thị L. (60 tuổi, dân tộc Tày, tỉnh Lạng Sơn) được đưa vào Khoa Nội tổng hợp – Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng da bong vẩy, sần ngứa toàn thân, ngứa nhiều kèm sốt nhẹ, đàu chi có nhiểu vết nứt nẻ, chảy dịch và hai chân phù nề.

Trước đó, bệnh nhân bị ngứa kéo dài nên tự điều trị tại nhà, uống thuốc không rõ loại trong 10 ngày. Cảm giác ngứa dữ dội khiến bà tưởng tượng có sâu bò trên da, từ đó tìm các loại thuốc lá, thuốc nam bôi trực tiếp lên vùng tổn thương. Tuy nhiên, tình trạng không cải thiện mà còn nặng lên.
Khi nhập viện, bệnh nhân được ghi nhận trong tình trạng toàn thân nề đỏ, nứt nẻ, bong vảy, sốt và ngứa nhiều.
Bác sĩ Phan Thị Thanh Hoa, người trực tiếp điều trị cho bệnh nhân L cho biết: bệnh nhân được tầm soát các bệnh lý ký sinh trùng như: giun lươn, giun xoắn, giun đũa chó mèo, sán lá gan lớn và nhỏ, sán dây lợn, sán dây chó… Kết quả cho thấy bệnh nhân mắc dị ứng thuốc không rõ loại trên nền viêm da cơ địa.
Sau 5 ngày điều trị phối hợp hai chuyên khoa Dị ứng – Miễn dịch và Da liễu, tình trạng bệnh nhân được cải thiện rõ rệt: hết sốt, giảm nề đỏ, hết sẩn ngứa, da không còn bong vảy.
Bác sĩ Hoa chia sẻ tình trạng dị ứng có thể do nhiều loại dị nguyên, trong đó có khả năng liên quan đến ký sinh trùng. Một số triệu chứng của dị ứng thuốc cũng dễ bị nhầm viêm da cơ địa, vì vậy người bệnh không nên tự ý dùng thuốc hay bôi bất kỳ loại lá, thuốc nam, hóa chất… lên da khi xuất hiện các tổn thương. Viêm da cơ địa là bệnh mạn tính nhưng hoàn toàn có thể kiểm soát nếu người bệnh tuân thủ điều trị và tái khám đúng chuyên khoa.
Từ trường hợp của bệnh nhân L., bác sĩ Hoa khuyến cáo: người dân khi xuất hiện các dấu hiệu như ngứa nhiều, sẩn đỏ, bong da, nứt nẻ hay chảy dịch cần đi khám sớm để được chẩn đoán đúng và điều trị kịp thời. Việc tự điều trị tại nhà có thể khiến tổn thương da lan rộng, gây nhiễm trùng, dị ứng nặng và kéo dài thời gian điều trị.

PHẪU THUẬT NỘI SOI THÀNH CÔNG UNG THƯ DẠ DÀY Ở BỆNH NHÂN NHIỀU BỆNH NỀN PHỨC TẠP

Bệnh nhân N.N.H, 60 tuổi, Hà Nội, nhập viện Trung tâm Phẫu thuật Gan mật và tiêu hóa – Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng mệt mỏi kéo dài, chán ăn, ăn uống kém và sút cân rõ rệt, cân nặng chỉ còn khoảng 47–50kg. Theo người nhà, ông H. có nhiều bệnh lý nền phức tạp gồm HIV đang điều trị ARV ổn định từ năm 2002, tiền sử viêm gan C đã điều trị khỏi, suy thận mạn và tăng huyết áp cần dùng thuốc hằng ngày. Thể trạng gầy, miễn dịch kém và dinh dưỡng giảm sút khiến bệnh nhân rơi vào tình trạng suy kiệt, làm tăng đáng kể nguy cơ khi phải phẫu thuật lớn.
Kết quả nội soi – sinh thiết tại bệnh viện xác định bệnh nhân mắc ung thư dạ dày biểu mô tuyến, trong đó có thành phần tế bào nhẫn – một thể ung thư ác tính cao, thường tiến triển nhanh và dễ lan rộng.
Điểm đáng lưu ý, ung thư dạ dày ở giai đoạn đầu thường không triệu chứng điển hình, chỉ gây đầy bụng, khó tiêu, ợ chua, đau âm ỉ vùng thượng vị –rất dễ nhầm với viêm dạ dày thông thường nên người bệnh thường chủ quan. Khi bệnh tiến triển, bệnh nhân bắt đầu có cảm giác no sớm, sụt cân, thiếu máu kéo dài – đây cũng chính là những biểu hiện mà ông H. gặp phải. Đến các giai đoạn muộn, có thể sờ thấy khối cứng vùng bụng trên hoặc nổi hạch thượng đòn trái, nhưng khi đó việc điều trị trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
BSCKII Nguyễn Thanh Sơn – Trung tâm Phẫu thuật Gan mật – Tiêu hóa cho biết: “ Khi tiếp nhận, bệnh nhân suy nhược, ăn kém, chức năng các cơ quan đều giảm, nên nguy cơ biến chứng trong và sau mổ rất lớn. Tuy nhiên, nếu trì hoãn, khối u có thể xâm lấn sâu hơn hoặc gây tắc nghẽn, chảy máu, khiến người bệnh không còn đủ điều kiện để phẫu thuật. Vì vậy, can thiệp ở thời điểm hiện tại là cần thiết để cải thiện tiên lượng. Với bệnh nhân có nhiều bệnh nền như vậy, mỗi chỉ định điều trị chúng tôi đều phải cân nhắc rất kỹ. Bởi người bệnh HIV có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn, thời gian lành vết thương chậm hơn, trong khi bệnh thận và tim mạch khiến gây mê, hồi sức sau mổ trở nên đặc biệt nhạy cảm. Nhưng sau hội chẩn đa chuyên khoa – bao gồm phẫu thuật gan mật tiêu hóa, hồi sức, truyền nhiễm và gây mê, chúng tôi thống nhất lựa chọn phẫu thuật nội soi cắt 3/4 dạ dày và nạo vét hạch, đây là phương pháp điều trị nền tảng cho ung thư dạ dày chưa có di căn xa.”
Trong mổ, kíp phẫu thuật ghi nhận khối u tại vùng bờ cong nhỏ dạ dày, kích thước khoảng 2 cm. Dù không quá lớn, vị trí sát mạch máu lớn và dây chằng gan – dạ dày khiến việc bóc tách phải cực kỳ tỉ mỉ để tránh chảy máu. Khó khăn lớn nhất là thể trạng bệnh nhân yếu, mô dạ dày mỏng, mạch máu dễ vỡ, dạ dày bị teo nhỏ do bỏ ăn kéo dài, khiến không gian thao tác nội soi rất hạn chế. Ê-kíp phải điều khiển dụng cụ trong trường nhìn hẹp, cẩn trọng từng milimet khi bóc tách gần mạch vị trái, đồng thời kiểm soát lượng máu chảy trong từng thì mổ.
Ca mổ được tiến hành hoàn toàn bằng nội soi, sử dụng hệ thống stapler để cắt dạ dày bệnh lý và nối lại dạ dày – ruột. Đường cắt và miệng nối được kiểm tra kín, đảm bảo không rò dịch, không chảy máu. Dù đối mặt nhiều nguy cơ, cuộc phẫu thuật diễn ra thành công, hạn chế tối đa mất máu và không xảy ra biến chứng trong mổ.
BS Sơn khẳng định, phẫu thuật nội soi mang lại nhiều ưu điểm vượt trội so với mổ mở; ít đau hơn, sớm vận động – ăn uống trở lại, giảm nguy cơ nhiễm trùng, tắc ruột sau mổ và rút ngắn thời gian nằm viện, trong khi vẫn đảm bảo yêu cầu triệt căn ung thư và lấy bỏ hệ thống hạch theo đúng quy trình. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân nhiều bệnh nền.
Từ trường hợp này, BS Sơn khuyến cáo người dân không nên chủ quan với các triệu chứng kéo dài như chán ăn, đầy bụng, sút cân không rõ nguyên nhân hay đau âm ỉ vùng thượng vị, đây có thể là dấu hiệu sớm của ung thư dạ dày. Người có bệnh mạn tính cần được khám định kỳ để phát hiện sớm bất thường, bởi nếu phát hiện giai đoạn sớm, cơ hội điều trị thành công sẽ cao hơn rất nhiều.

NAM THANH NIÊN PHÁT BỆNH DẠI SAU 6 THÁNG BỊ CHÓ CẮN

Bệnh nhân nam S.V.Đ (30 tuổi, trú tại Tuyên Quang) được chuyển Khoa Cấp cứu – Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng kích thích sợ ánh sáng, sợ nước, suy hô hấp và được đặt ống nội khí quản hỗ trợ thở máy.

Theo thông tin từ người nhà, khoảng 6 tháng trước, bệnh nhân từng bị chó con 1 tháng cắn, cùng thời điểm với chị dâu, cháu gái và một người hàng xóm. Hai ngày sau con chó chết. Tuy nhiên, sau khi bị chó cắn, anh Đ. không được tiêm vắc xin phòng dại. Ba ngày trước khi nhập viên, người bệnh bắt đầu xuất hiện các triệu chứng thần kinh điển hình: kích thích, sợ gió, sợ ánh sáng, sợ nước. Sau 1 ngày điều trị tại cơ sở y tế nhưng không cải thiện, bệnh nhân được chuyển đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng nguy kịch.
Tại đây, bệnh nhân được ghi nhận sốt 38.3°C, có dấu hiệu nhiễm trùng, gáy cứng, gợi ý tổn thương thần kinh trung ương. Trên da vùng lưng có xuất huyết dạng mảng do người nhà từng áp dụng cao gió. Hô hấp diễn biến nặng, phải thở máy qua ống nội khí quản, phổi hai bên có rales ẩm rải rác. Kết quả chọc dịch não tủy cho thấy tăng áp lực. Xét nghiệm dại trong Dịch não tủy cho kết quả dương tính. Sau khi có kết quả khẳng định mắc dại, gia đình bệnh nhân đã xin về chăm sóc tại nhà.
ThS.BS Trương Tư Thế Bảo – Bác sĩ Khoa Cấp cứu cho biết: “Đây là một trường hợp rất đáng tiếc. Dù thời điểm bị chó cắn đã cách đây 6 tháng, nhưng việc không tiêm phòng dại sau phơi nhiễm đã khiến bệnh nhân rơi vào tình trạng nguy hiểm. Virus dại có thể ủ bệnh kéo dài nhiều tuần đến vài tháng, nhưng khi đã lên cơn thì gần như không có cơ hội cứu chữa.”
Bác sĩ Bảo cảnh báo: “Với người bị động vật nghi dại cắn hay cào không chảy máu hay liếm trên da bị tổn thương, đặc biệt là chó, mèo không rõ nguồn gốc – cần được tiêm phòng dại ngay lập tức. Nếu vết thương nặng, có nhiều vết cắn hoặc vết cắn ở các vị trí nguy hiểm như đầu, mặt, cổ, đầu bàn tay bàn chân, bộ phận sinh dục…, bác sĩ sẽ chỉ định tiêm huyết thanh kháng dại cùng vắc xin phòng dại. Bệnh dại có thể âm thầm ủ bệnh suốt nhiều tháng, nhưng khi phát cơn – gần như 100% tử vong. Tiêm phòng sớm là cách duy nhất để bảo vệ bạn và người thân. Tuyệt đối không tự ý đắp thuốc, lá cây hay áp dụng mẹo dân gian lên vết thương, vì có thể gây nhiễm trùng, che lấp tổn thương và làm giảm hiệu quả của việc tiêm phòng. Đừng chủ quan – chỉ một chút chần chừ cũng có thể đánh đổi bằng tính mạng.”

CẢNH GIÁC VỚI SỐT MÒ – BỆNH TRUYỀN NHIỄM DỄ BỊ BỎ SÓT

Bệnh nhân nữ T. T. K (Phú Thọ), 81 tuổi, có tiền sử đái tháo đường type 2, khởi phát bệnh với sốt cao liên tục 39–40°C, kèm đau đầu, mệt mỏi, chán ăn. Trên da xuất hiện ban rải rác vùng lưng, sốt đáp ứng kém với thuốc hạ sốt và kháng sinh thông thường. Bệnh nhân tự điều trị tại nhà nhiều ngày nhưng không cải thiện.
Sau 5 ngày, người bệnh được đưa đến cơ sở y tế địa phương thăm khám. Mặc dù được điều trị tích cực, tình trạng vẫn không tiến triển, bệnh nhân tiếp tục sốt dai dẳng, đau đầu kéo dài, rối loạn tri giác, mê sảng về đêm, ăn uống kém. Bệnh diễn tiến âm thầm nhưng nặng dần, đến ngày thứ 9, bệnh nhân được chuyển tới Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung Ương.
Tại đây, các bác sĩ phát hiện một vết loét tròn, đóng vảy đen ở hõm nách – dấu hiệu điển hình nhưng dễ bị bỏ sót của Sốt mò. Test nhanh kháng thể IgM Orientia Tsutsugamushi dương tính. Xét nghiệm cho thấy bạch cầu tăng nhẹ, tiểu cầu giảm, cảnh báo nhiễm trùng huyết tiềm ẩn. Bệnh nhân được điều trị kháng sinh đặc hiệu, theo dõi sát với chẩn đoán: Sốt mò thể nặng, biến chứng viêm phổi, tổn thương gan và nguy cơ viêm màng não.
Vết loét tròn, đóng vẩy đen tại hõm nách của bệnh nhân
Theo gia đình, bệnh nhân sống ở nông thôn, trước nhà có vườn và bờ rào nơi thường xuyên trồng rau, làm vườn. Đây là yếu tố dịch tễ quan trọng, làm tăng nguy cơ tiếp xúc với ấu trùng mò ký sinh trên chuột, sống trong bụi cỏ thấp, ẩm ướt quanh nhà.
BS CKI Lê Văn Thiệu – Khoa Nhiễm khuẩn tổng hợp cho biết: “Sốt mò là bệnh nhiễm trùng cấp tính do vi khuẩn Orientia Tsutsugamushi gây ra, lây qua ấu trùng mò, không phải mò trưởng thành. Ấu trùng mò ký sinh trên chuột, sinh sống ở bụi rậm, bờ ruộng, vùng ẩm ướt. Khi đốt người, chúng để lại vết loét tròn, không đau, không ngứa, dễ bị bỏ sót nếu không thăm khám kỹ. Vị trí thường gặp là hõm nách, bẹn, sau tai, dưới vú, quanh rốn…”
BS. Lê Văn Thiệu thăm khám cho bệnh nhân
Theo bác sĩ, triệu chứng sớm của sốt mò dễ nhầm với cúm: sốt, đau đầu, mệt mỏi, phát ban… nên thường bị chẩn đoán muộn hoặc bỏ sót. Nếu không điều trị kịp thời bằng kháng sinh đặc hiệu, bệnh có thể tiến triển nhanh sang viêm phổi, viêm màng não, nhiễm trùng huyết, suy gan, đe dọa tính mạng, đặc biệt ở người cao tuổi và người có bệnh nền.
“Đôi khi, chính một vết đốt bị lãng quên lại là chìa khóa giúp cứu người bệnh. Việc khai thác yếu tố dịch tễ như làm vườn, phát cỏ, tiếp xúc bụi rậm ẩm ướt và khám toàn thân tìm vết loét là cực kỳ quan trọng để tránh bỏ sót bệnh”, BS Thiệu nhấn mạnh.
Bác sĩ khuyến cáo: “Khi sốt kéo dài không rõ nguyên nhân, đặc biệt sau khi tiếp xúc môi trường bụi rậm, ruộng vườn, cần đến cơ sở y tế để được thăm khám, loại trừ sốt mò và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Chủ động phòng bệnh bằng cách mặc quần áo dài, dùng thuốc xua côn trùng, phát quang bụi rậm, diệt chuột, nhất là trong mùa mưa ẩm – thời điểm bệnh dễ bùng phát.”

NHIỀU TRẺ NHỎ NHẬP VIỆN VÌ CÚM A – CẢNH BÁO NGUY CƠ BIẾN CHỨNG NẶNG

Hiện Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương đang điều trị gần 50 bệnh nhân mắc cúm A. Số ca khám và điều trị ngoại do cúm A tăng lên nhanh trong vài tuần qua, trong đó đa phần là trẻ em.

Bệnh nhi 16 tháng tuổi, T. T. H (Hà Nội), được chẩn đoán cúm A, có viêm phế quản – phổi bội nhiễm, may mắn được phát hiện và điều trị kịp thời. Bé vốn khỏe mạnh, sống cùng gia đình có chị gái đang mắc cúm. Trước nhập viện 3 ngày, trẻ sốt cao liên tục, sổ mũi, ho khan nhiều, sau đó xuất hiện khò khè, ho có đờm đặc. Trẻ mệt lả, ho khạc kém, ứ đọng nhiều đờm. Trẻ đến khám tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho kết quả test cúm A dương tính. Khám lâm sàng cho thấy phổi đã có dấu hiệu bội nhiễm, nghe phổi nhiều rải ẩm, ran rít hai bên. Hình ảnh X-quang phổi lúc nhập viện có tổn thương phế quản – phổi hai bên, bội nhiễm vi khuẩn rõ rệt. Xét nghiệm máu phản ánh tình trạng nhiễm trùng nặng: bạch cầu tăng 13,8 G/L, CRP 51 mg/L – cao gấp hơn 10 lần bình thường. Nếu không được phát hiện và xử trí sớm, bệnh có thể diễn tiến nhanh thành suy hô hấp cấp hoặc nhiễm trùng huyết.
Sau hai ngày điều trị nội trú, trẻ đáp ứng tốt, giảm sốt, cải thiện hô hấp, ăn bú trở lại, tuy nhiên vẫn cần theo dõi sát.
Một trường hợp khác là bệnh nhi nữ H.L (10 tuổi), nhập viện trong tình trạng sốt cao 39,5°C, ho nhiều, nôn hơn 10 lần/ngày, có lúc nôn rớm máu, toàn thân mệt lả, không ăn uống được. Ngoài ra, trẻ có biểu hiện đau mỏi xương khớp toàn thân, cơ thể ê ẩm, đau đầu nhiều – là những biểu hiện điển hình khi nhiễm cúm A. Kết quả thăm khám xác định trẻ mắc cúm A nhưng chưa có biến chứng. Bệnh nhi đã được nhập viện điều trị theo đúng phác đồ, đồng thời được hỗ trợ giảm đau, chống nôn, bù nước điện giải và theo dõi sát.
ThS.BS. Nội trú Nguyễn Đình Dũng, khoa Nhi, cho biết: “Cúm A là bệnh truyền nhiễm cấp tính lây truyền qua đường hô hấp, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng trẻ nhỏ, người cao tuổi hoặc người có bệnh nền là nhóm nguy cơ cao hơn vì hệ miễn dịch yếu, dễ bị biến chứng nặng. Đáng chú ý, giai đoạn đầu của cúm A thường giống với nhiễm các virus đường hô hấp khác, nhưng bệnh có thể diễn tiến rất nhanh, gây ra các biến chứng nặng như viêm phổi, suy hô hấp hoặc nhiễm khuẩn huyết nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.”
Theo bác sĩ Dũng, hầu hết trẻ mắc cúm A đều sốt cao liên tục, sổ mũi, ho tăng dần kèm theo mệt lả, quấy khóc. Trẻ lớn và người lớn thường thấy rõ hơn biểu hiện đau mỏi người, đau nhức xương khớp. Ngoài ra, trẻ có thể gặp co giật do sốt cao, nôn trớ, tiêu chảy. Nếu bệnh diễn tiến nặng, trẻ có thể lừ đừ, ít phản ứng, bỏ bú, thở nhanh hoặc rút lõm ngực – đều là dấu hiệu cảnh báo biến chứng.
BS Dũng khuyến cáo: Các bậc phụ huynh cần theo dõi sát tình hình sức khỏe của con em mình. Khi trẻ có biểu hiện ốm, sốt, cần đưa trẻ đến các cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám, chẩn đoán sớm và xử trí đúng. Không nên tự ý sử dụng thuốc tại nhà, đặc biệt là các loại kháng sinh. Việc đưa trẻ đến khám kịp thời sẽ giúp điều trị đúng phác đồ, hạn chế các biến chứng nặng.
Trước diễn biến gia tăng các ca cúm A trong thời điểm giao mùa, việc phòng bệnh, đặc biệt bằng tiêm vắc xin cúm, là vô cùng quan trọng để bảo vệ sức khỏe cho cả gia đình. BSCKII Nguyễn Nguyên Huyền – Giám đốc Trung tâm Phòng chống Dịch nhấn mạnh: “Hiện nay, thời tiết giao mùa, nhiệt độ thay đổi thất thường là điều kiện thuận lợi để virus cúm A lây lan mạnh trong cộng đồng. Tiêm vắc xin phòng cúm hằng năm là biện pháp đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả giúp bảo vệ sức khỏe, giảm nguy cơ mắc bệnh và tránh các biến chứng nguy hiểm, đặc biệt ở trẻ nhỏ, người cao tuổi, phụ nữ mang thai và người có bệnh nền.
Người dân nên chủ động tiêm phòng cúm cho bản thân và con em mình, nhất là trong thời điểm dịch bệnh gia tăng. Bên cạnh đó, cần giữ vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên, đeo khẩu trang khi đến nơi đông người và cách ly người bệnh để hạn chế lây lan trong gia đình và trường học.”

5 NĂM – DẤU ẤN MỘT HÀNH TRÌNH GÂY MÊ HỒI SỨC

Nếu ví các bác sĩ ngoại khoa là ” người cầm dao mổ “, thì đội ngũ gây mê hồi sức chính là ” người giữ nhịp sống ” cho bệnh nhân trong suốt cuộc phẫu thuật – thầm lặng nhưng quyết định sự thành công của ca mổ và sự an toàn của người bệnh.

Khoa Gây mê Hồi sức (GMHS) Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương bồi hồi nhìn lại chặng đường 5 năm hình thành và phát triển – một hành trình tuy còn non trẻ nhưng đã khẳng định được vai trò không thể thiếu trong hoạt động điều trị và phẫu thuật của bệnh viện.
Tập thể Khoa Gây mê hồi sức
Từ những ngày đầu gian khó…
Khoa Gây mê Hồi sức được thành lập ngày 03/11/2020, trong bối cảnh bệnh viện đang mở rộng quy mô, phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại khoa, phẫu thuật cho bệnh nhân truyền nhiễm. Những ngày đầu ấy, khoa chỉ có số lượng cán bộ ít ỏi, trang thiết bị còn hạn chế, song tập thể cán bộ, bác sĩ, điều dưỡng đã cùng nhau vượt khó, học hỏi không ngừng, đoàn kết xây dựng nền móng cho một chuyên khoa đặc thù – nơi vừa cần kiến thức sâu rộng, vừa đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn và tinh thần trách nhiệm cao nhất.
…đến một tập thể vững vàng, chuyên nghiệp
Sau 5 năm, từ những bước đi đầu tiên đầy thử thách, Khoa Gây mê Hồi sức đã vươn lên trở thành một trong những đơn vị nòng cốt của bệnh viện, đảm nhiệm công tác gây mê – hồi sức cho hàng nghìn ca phẫu thuật mỗi năm. Đội ngũ y bác sĩ của khoa không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, được đào tạo bài bản, làm chủ nhiều kỹ thuật chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu của các phẫu thuật phức tạp: cắt u gan, u đường mật, thay khớp háng, thay khớp gối, chấn thương sọ não, u não, áp xe não đa ổ, cố định cột sống, tán sỏi thận qua da (PCNL), tán sỏi ống mềm…
Đặc biệt, với đặc thù của bệnh viện tuyến cuối về bệnh truyền nhiễm, Khoa Gây mê Hồi sức đã đảm nhận và thực hiện thành công hàng nghìn ca phẫu thuật cho bệnh nhân nhiễm trùng, nhiễm khuẩn nặng – những ca bệnh mà mỗi phút giây trong phòng mổ đều đòi hỏi sự tỉnh táo, bản lĩnh và tinh thông chuyên môn của đội ngũ gây mê hồi sức.
Trong giai đoạn dịch COVID-19, các bác sĩ GMHS cũng là một phần của tuyến đầu. Khoa đã trực tiếp tham gia phẫu thuật cho gần 100 sản phụ mắc COVID-19 chuyển đến từ các bệnh viện khác, cũng như hơn 10 bệnh nhân COVID-19 nặng đang chạy ECMO – minh chứng rõ nét cho tinh thần dũng cảm, tận tụy và năng lực chuyên môn vững vàng của đội ngũ y bác sĩ.
Không chỉ dừng lại trong phòng mổ, Khoa Gây mê Hồi sức còn đảm nhiệm gây mê ngoài phòng mổ cho Trung tâm Thăm dò chức năng (nội soi tiêu hóa hàng nghìn ca mỗi tháng) và Khoa Chẩn đoán hình ảnh (cho các ca chụp CT, MRI khi bệnh nhân không hợp tác). Đồng thời, khoa tích cực tham gia đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho các khoa, phòng trong bệnh viện và tuyến dưới, góp phần lan tỏa kiến thức, nâng cao chất lượng chuyên môn trong toàn ngành.
Ban Giám đốc bệnh viện tặng hoa chúc mừng tập thể Khoa Gây mê hồi sức
Một nền tảng vững chắc cho tương lai
Năm năm – một chặng đường chưa dài, nhưng đủ để chứng minh bản lĩnh và vị thế của một ngành còn non trẻ. Từ những ngày đầu gian khó đến khi trở thành đơn vị không thể thiếu trong mọi cuộc phẫu thuật, tập thể Khoa Gây mê Hồi sức luôn giữ vững mục tiêu cao nhất: đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người bệnh, nâng cao chất lượng điều trị, và góp phần vào thành công chung của toàn bệnh viện.
BS CKI Phạm Đức Chính – Phụ trách Khoa Gây mê Hồi sức chia sẻ: Trong 5 năm qua, chúng tôi đã trải qua nhiều khó khăn, thử thách, nhưng cũng là quãng thời gian đầy tự hào khi được cùng nhau nỗ lực, đoàn kết và trưởng thành. Những kết quả đạt được hôm nay là công sức của cả tập thể – từ các bác sĩ, điều dưỡng cho đến nhân viên hậu cần – tất cả đều chung một mục tiêu là bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người bệnh. Nhân dịp này, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Đảng ủy, Ban Giám đốc bệnh viện cùng toàn thể lãnh đạo các khoa, phòng, trung tâm đã luôn quan tâm, tạo điều kiện và đồng hành cùng chúng tôi trong suốt thời gian qua. Chúng tôi cũng mong tiếp tục nhận được sự tin tưởng, hỗ trợ và sát cánh của Ban Giám đốc cùng đồng nghiệp để Khoa Gây mê Hồi sức tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa – xứng đáng với niềm tin yêu của người bệnh và góp phần vào sự phát triển chung của Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.”

NGƯỜI CAO TUỔI DỄ VIÊM PHỔI MÙA LẠNH – CẢNH BÁO TỪ NHỮNG CA BỆNH THỰC TẾ

Cụ P.T.M (90 tuổi, ở Hà Nội) được người nhà đưa đến viện trong tình trạng mệt lả, khó thở, ho húng hắng, ăn uống kém. Trước đó một ngày, cụ tắm nước ấm vào chiều tối khá lâu rồi trượt ngã trong nhà vệ sinh. Sáng hôm sau, người thân phát hiện cụ mệt nhiều, khó thở nên lập tức đưa đến bệnh viện. Qua thăm khám, xét nghiệm, các bác sĩ xác định cụ bị viêm phổi nặng, phải điều trị tích cực và theo dõi sát sao.

Một trường hợp khác là cụ N.T.L (94 tuổi, Hà Nội) nhập viện với sốt cao 39°C, ho nhiều, đờm đặc, khó thở. Cụ có tiền sử tai biến mạch máu não, yếu nửa người, gãy cổ xương đùi, nằm liệt giường hơn 2 năm. Hai ngày trước khi nhập viện, cụ bắt đầu, sốt, ho, uống thuốc hạ sốt tại nhà không đỡ. Khi vào viện, bác sĩ ghi nhận đờm trắng đục, chỉ số Spo₂ tụt còn 85%, phổi có viêm và tràn dịch màng phổi hai bên. Cụ được điều trị kháng sinh phổ rộng, thuốc giãn phế quản, hỗ trợ hô hấp bằng oxy lưu lượng cao và hút đờm tích cực để làm sạch đường thở, giảm nguy cơ suy hô hấp .

TS. Vũ Minh Điền – Phó Trưởng khoa Nội Tổng hợp, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết, khi thời tiết chuyển lạnh, người cao tuổi là nhóm có nguy cơ cao mắc các bệnh do giảm sức đề kháng và rối loạn điều hòa thân nhiệt.
“Người già có hệ miễn dịch yếu, các cơ quan đã lão hóa, dễ bị tác động bởi thay đổi thời tiết. Chỉ cần tắm muộn, gặp gió lạnh hay thay đổi nhiệt độ đột ngột cũng có thể khiến bệnh bùng phát,” TS. Điền nhấn mạnh :
” Mùa lạnh – ” kẻ thù ” của sức khỏe người già.
Theo TS.BS Vũ Minh Điền, mùa lạnh là thời điểm nhiều bệnh lý ở người cao tuổi dễ tái phát hoặc trở nặng. Trong đó, viêm phổi là nguyên nhân hàng đầu gây nhập viện và tử vong. Không khí lạnh, khô khiến niêm mạc đường hô hấp bị kích thích, phản xạ ho yếu, đờm khó khạc nên dễ nhiễm khuẩn.
Bên cạnh viêm phổi, người cao tuổi còn dễ mắc các bệnh tim mạch như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, đột quỵ. Thời tiết lạnh làm mạch máu co lại, huyết áp tăng, tim phải làm việc nhiều hơn, đặc biệt nguy hiểm với những người có bệnh nền tim mạch, xơ vữa động mạch hoặc đái tháo đường.
Ngoài ra, các bệnh xương khớp cũng thường trở nên trầm trọng khi trời lạnh. Máu lưu thông kém khiến khớp bị cứng, đau nhức, nhiều người còn bị chuột rút, co cứng cơ về đêm. Một số trường hợp còn gặp tai nạn do lạnh, như ngã trượt trong nhà tắm, hạ thân nhiệt hoặc ngộ độc khí than khi sưởi không đúng cách.
Chủ động phòng bệnh để bảo vệ sức khỏe mùa lạnh 
Theo TS. Điền, người cao tuổi cần được quan tâm đặc biệt trong mùa đông. “Giữ ấm, ăn đủ, ngủ ngon, vận động hợp lý là những biện pháp đơn giản nhưng rất hiệu quả để phòng bệnh”. TS Điền khuyến cáo: Giữ ấm toàn thân, đặc biệt là bàn tay, bàn chân, cổ và ngực. Không tắm muộn, tránh ra ngoài sớm khi trời còn lạnh. Ăn uống đủ chất, bổ sung rau xanh, trái cây, uống đủ nước ấm. Duy trì vận động nhẹ trong nhà để tăng lưu thông máu. Tiêm phòng cúm và phế cầu theo khuyến cáo. Theo dõi huyết áp, đường huyết thường xuyên và dùng thuốc đúng chỉ dẫn.
“Khi có các dấu hiệu như khó thở, ho kéo dài, sốt, mệt mỏi… cần đến cơ sở y tế khám sớm, tuyệt đối không tự ý dùng thuốc, vì bệnh có thể diễn tiến nhanh và nặng hơn ở người già,” TS. Điền nhấn mạnh.

CỨU SỐNG BỆNH NHÂN UNG THƯ GAN GIAI ĐOẠN MUỘN BẰNG CA PHẪU THUẬT ĐẶC BIỆT

Các bác sĩ Trung tâm phẫu thuật Gan mật, tiêu hóa – Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vừa phẫu thuật thành công một ca ung thư gan giai đoạn muộn, có khối u kích thước rất lớn, xâm lấn tĩnh mạch cửa – biến chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng.

Bệnh nhân nam – 36 tuổi được chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) với khối u đường kính hơn 14cm ở gan phải, chiếm tới 60–70% thể tích gan và xâm lấn vào tĩnh mạch cửa nhánh phải – yếu tố tiên lượng rất xấu.
Trước đó, bệnh nhân từng đến khám tại cơ sở y tế khác và được kê thuốc điều trị. Tuy nhiên, chỉ sau vài ngày dùng thuốc, anh đau bụng tăng nhiều nên cùng vợ đến khám tại Trung tâm phẫu thuật Gan mật, tiêu hóa – Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng đau dữ dội vùng hạ sườn phải.
Kết quả chụp cắt lớp, cho thấy khối u gan phải rất lớn, có đặc điểm điển hình của ung thư gan nguyên phát, kèm theo huyết khối trong tĩnh mạch cửa nhánh phải (Vp3). Chức năng gan của bệnh nhân còn tốt, thể trạng gắng gượng. Theo hệ thống phân loại BCLC, đây là giai đoạn C, tức là đã có biến chứng mạch máu lớn nhưng chưa di căn xa.
BSCKII Nguyễn Trường Giang, Phó Giám đốc, Trung tâm phẫu thuật Gan mật, tiêu hóa cho biết: “Khối u này không chỉ rất to – nặng trên 2kg, mà còn xâm lấn mạch máu lớn. Nếu không can thiệp kịp thời, nguy cơ vỡ u, tắc tĩnh mạch cửa, gây suy gan, vỡ giãn tĩnh mạch thực quản và tử vong là rất cao.”
Sau hội chẩn chuyên khoa, các bác sĩ quyết định phẫu thuật cắt gan phải nhằm kiểm soát khối u và giảm thiểu biến chứng. Ca mổ kéo dài 4 giờ, khối u nặng khoảng 2,5kg được lấy ra thành công, huyết khối tĩnh mạch cửa được xử trí triệt để. Lượng máu mất chỉ khoảng 400ml – phần lớn nằm trong khối u.
 
Ca phẫu thuật giúp giảm đau, tránh ngăn nguy cơ vỡ u, đồng thời loại bỏ phần lớn tế bào ung thư. Dù vẫn còn nguy cơ di căn vi thể hoặc tái phát trong song việc loại bỏ được khối u chính kéo dài thời gian sống và mở ra cơ hội điều trị bổ trợ sau mổ. Theo BS Giang, nếu tái phát xảy ra muộn, ở thể nhỏ và phát hiện sớm qua tầm soát, thì vẫn có thể can thiệp thêm bằng nhiều phương án khác như phẫu thuật lại, đốt u, nút mạch…
Đáng chú ý, bệnh nhân này có tiền sử viêm gan B – yếu tố nguy cơ cao dẫn tới ung thư gan, nhưng chỉ phát hiện bệnh cách đây khoảng 1 năm. Việc bỏ qua tầm soát định kỳ khiến ung thư được phát hiện muộn, khi u đã rất lớn và gây biến chứng.
Từ trường hợp này, các bác sĩ khuyến cáo người dân – đặc biệt là những người có viêm gan virus (B, C), xơ gan hoặc có yếu tố nguy cơ – cần đi khám gan mật định kỳ 6 tháng/lần, làm siêu âm và xét nghiệm AFP (chất chỉ điểm ung thư gan) để phát hiện sớm các tổn thương gan bất thường. Khi ung thư gan được phát hiện ở giai đoạn sớm, khả năng điều trị triệt căn sẽ cao hơn rất nhiều, chi phí thấp hơn và tiên lượng sống tốt hơn.
Hiện bệnh nhân đang hồi phục tốt sau mổ và sẽ được theo dõi sát sau xuất viện để kịp thời xử lý nếu có dấu hiệu tái phát.

BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐÔNG HƯNG ĐẾN THĂM VÀ LÀM VIỆC TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG

Sáng ngày 03/11/2025, Đoàn công tác của Bệnh viện Đa khoa Đông Hưng (tỉnh Hưng Yên) do ThS.BS Phạm Tín Trung – Giám đốc bệnh viện làm Trưởng đoàn đã đến thăm và làm việc tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương. Tham gia đoàn còn có BSCKII Nguyễn Duy Quyền – Phó Giám đốc, cùng lãnh đạo các khoa, phòng của Bệnh viện.

Về phía Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, TS.BS Phạm Ngọc Thạch – Giám đốc Bệnh viện chủ trì buổi tiếp đón, cùng TS.BS Nguyễn Thanh Hà – Phó Giám đốc, BSCKII Nguyễn Trung Cấp – Phó Giám đốc và đại diện lãnh đạo các khoa, phòng, trung tâm của bệnh viện.

Quang cảnh buổi làm việc

Phát biểu tại buổi làm việc, ThS.BS Phạm Tín Trung bày tỏ niềm vinh dự khi được đến thăm và học hỏi tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương – một trong những cơ sở y tế đầu ngành về bệnh truyền nhiễm. Ông chia sẻ: “Đoàn công tác rất ấn tượng với cơ sở vật chất hiện đại, môi trường làm việc chuyên nghiệp và tinh thần thân thiện của đội ngũ cán bộ y tế. Chúng tôi mong muốn được học hỏi thêm trong lĩnh vực khám, chữa bệnh và hy vọng trong thời gian tới có thể mời Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương đến thăm, hỗ trợ chuyên môn cho Bệnh viện Đông Hưng.”

ThS.BS. Lê Tín Trung – Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Đông Hưng

Đón tiếp và trao đổi tại buổi làm việc, TS.BS Phạm Ngọc Thạch nhấn mạnh: trong bối cảnh tự chủ bệnh viện, các cơ sở y tế tuyến trung ương và tuyến dưới đều đang nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ để phục vụ người bệnh tốt nhất. Ông khẳng định tầm quan trọng của việc đầu tư hệ thống xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, cũng như tuân thủ hướng dẫn sử dụng kháng sinh dựa trên bằng chứng khoa học. “Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ đào tạo, giúp tuyến dưới nâng cao năng lực chuyên môn, đặc biệt trong các lĩnh vực cấp cứu, hồi sức tích cực và điều trị bệnh gan.” – TS.BS Phạm Ngọc Thạch cho biết.

TS.BS. Phạm Ngọc Thạch phát biểu

Tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi, thảo luận nhiều nội dung hợp tác. Đại diện Bệnh viện Đa khoa Đông Hưng đánh giá cao sự phát triển toàn diện của Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, đặc biệt ở các lĩnh vực ngoại khoa, vi sinh và kiểm soát nhiễm khuẩn. Đoàn công tác mong muốn được hỗ trợ đào tạo, chuyển giao kỹ thuật nội soi, điều trị viêm gan B, C và xây dựng mô hình quản lý bệnh truyền nhiễm tại tuyến huyện. Bên cạnh đó, các đại biểu của Bệnh viện Đông Hưng cũng chia sẻ những khó khăn trong triển khai bệnh án điện tử, quản lý khám chữa bệnh và thiếu hụt nhân lực chuyên sâu, đồng thời bày tỏ mong muốn được học hỏi kinh nghiệm về phân luồng bệnh nhân, quản lý hệ thống CNTT và công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.

Sau buổi làm việc, đoàn đã tham quan Trung tâm Hồi sức tích cực, Khoa Cấp cứu, hệ thống xét nghiệm và một số khoa lâm sàng của bệnh viện. Buổi gặp gỡ khép lại trong không khí cởi mở, hợp tác, thể hiện tinh thần chia sẻ, học hỏi giữa các tuyến bệnh viện, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

NAM THANH NIÊN BỊ BIẾN CHỨNG CHÈN ÉP KHOANG HIẾM GẶP DO SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE

Làm nghề mộc ở Bắc Ninh, anh C.V.T (25 tuổi) có chuyến đi giao hàng tại Lạng Sơn vào đầu tháng 10. Anh không biết chính xác bị muỗi đốt lúc nào. Năm ngày sau, anh bắt đầu thấy đau rát họng, mệt mỏi, sau đó sốt cao liên tục 39-40 độ C kèm đau đầu dữ dội,

Anh được người nhà đưa đến trạm y tế cơ sở, với chẩn đoán cúm B, được truyền dịch hạ sốt. Ngày hôm sau, các cơn đau đầu, đau bụng tăng lên, anh đến khám tại cơ sở tư nhân và được cho là rối loạn tiêu hóa. Khi triệu chứng không cải thiện, anh tiếp tục đến bệnh viện tỉnh. Kết quả xét nghiệm cho thấy tiểu cầu giảm, chụp CT phát hiện hình ảnh thâm nhiễm quanh đầu tụy, có dịch tự do trong ổ bụng. Xét nghiệm khẳng định anh mắc sốt xuất huyết Dengue.

Sau ba ngày điều trị tại tuyến tỉnh, tình trạng không thuyên giảm. Vùng cánh – cẳng tay trái xuất hiện sưng nề, đau tức, tụ máu và xuất huyết dưới da. Siêu âm phát hiện khối tụ máu trong cơ trên cẳng tay trái nên được chuyển đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương.

Tại Khoa Cấp cứu, bác sĩ Lê Sơn Việt cho biết: bệnh nhân nhập viện trong tình trạng sung huyết da mắt, xuất huyết dưới da nặng vùng cánh tay và sát nách trái, tiểu cầu chỉ còn 18 x 10⁹/L. Siêu âm phần mềm cho thấy tụ máu trong cơ cẳng tay, sưng nề, căng tức, đau nhức. Các bác sĩ chẩn đoán anh T. mắc sốt xuất huyết Dengue biến chứng hội chứng chèn ép khoang cánh tay trái.
BSCKII Nguyễn Hồng Hà, chuyên gia cao cấp của Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cho biết: “Hội chứng chèn ép khoang là hiện tượng tăng áp lực mô mềm trong khoang kín, khiến máu không lưu thông được trong mô. Triệu chứng ban đầu thường là phù nề, sưng hoặc tụ máu. Nếu phù nề phát triển trong khoang kín, nơi có ít khoảng trống để phần mềm giãn nở, áp lực khoang sẽ tăng lên. Khi áp lực vượt quá áp lực mao mạch, khiến việc trao đổi tế bào chậm đi hoặc bị ngừng lại sẽ gây ra sự thiếu máu cục bộ, phù nề tăng thêm. Nếu chậm trễ điều trị, cơ có thể hoại tử dẫn đến hội chứng chèn ép khoang, gây tổn thương không hồi phục cho cơ và thần kinh, dẫn đến mất chức năng chi vĩnh viễn, như liệt vận động, mất cảm giác, hoặc phải cắt cụt chi.”
Ngay sau khi được chẩn đoán, xác định mắc sốt xuất huyết Dengue có hội chứng chèn ép khoang ở cánh tay trái, anh T được điều trị tích cực, kiểm soát dịch truyền theo giờ, giảm áp lực chèn ép ở khoang cẳng cánh tay trái. Sau thời gian điều trị, anh đã hồi phục tốt.
Bác sĩ Lê Sơn Việt, khuyến cáo: sốt xuất huyết Dengue có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, không chỉ là sốc, xuất huyết nội tạng hay suy tạng mà còn có thể gây xuất huyết cơ, tụ máu, chèn ép khoang hoặc tổn thương thần kinh. Người bệnh tuyệt đối không nên tự truyền dịch hoặc điều trị tại nhà khi chưa được theo dõi y tế.
Khi có các dấu hiệu cảnh báo như đau bụng, nôn nhiều, lừ đừ, chảy máu bất thường, tay chân sưng đau, người bệnh cần đến ngay cơ sở y tế có năng lực điều trị sốt xuất huyết để được xử trí kịp thời.
Song song với việc điều trị, phòng bệnh vẫn là biện pháp quan trọng nhất. Người dân cần chủ động diệt muỗi, diệt loăng quăng, ngủ màn cả ban ngày lẫn ban đêm, loại bỏ các vật dụng chứa nước đọng quanh nhà. Hiện nay, tiêm vắc xin phòng sốt xuất huyết là biện pháp phòng ngừa chủ động giúp giảm nguy cơ mắc bệnh và biến chứng nặng.

NGỘ ĐỘC NGUY KỊCH DO UỐNG CỦ ẤU TẦU CHƯA QUA CHẾ BIẾN

Ngày 27/10/2025, Khoa Cấp cứu – Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương tiếp nhận bà N.T.S (78 tuổi, trú tại xã Mê Linh, TP Hà Nội) trong tình trạng mệt lả, da tái lạnh, mạch loạn hoàn toàn, huyết áp tụt sâu còn 50/30 mmHg – biểu hiện sốc tim do rối loạn nhịp nặng sau khi sử dụng củ ấu tầu, một loại thảo dược dân gian nhưng có độc tính cao nếu không được chế biến kỹ.

Theo người nhà, bệnh nhân có tiền sử đau khớp kéo dài và từng dùng thảo dược này cách đây 20 năm, sau đó tình trạng đau thuyên giảm. Gần đây do đau tái phát, bà đặt mua “củ ấu tầu” qua mạng– hàng được gửi từ vùng cao, với mục đích nấu nước uống chữa khớp. Dù được hướng dẫn chỉ dùng 1–2 củ/tuần, nhưng bệnh nhân đã tự ý sắc liền 5 củ/lần để uống. Khoảng 30 phút sau khi uống, bà xuất hiện chóng mặt, buồn nôn, nôn và nhanh chóng rơi vào tình trạng tụt huyết áp, rối loạn nhịp tim.

Tại Khoa Cấp cứu, ThS.BS Ninh Thị Ngọc và ê-kíp đã khẩn trương thực hiện các biện pháp hồi sức tích cực: truyền dịch chống sốc, dùng thuốc chống rối loạn nhịp, đặt monitor theo dõi liên tục để kiểm soát ngoại tâm thu thất chùm đôi – chùm ba – một dạng rối loạn nhịp tim nguy hiểm có thể gây tử vong. Song song, bệnh nhân được rửa dạ dày, dùng than hoạt và theo dõi sát các dấu hiệu nhiễm độc hệ thần kinh và tim mạch.
BS Ngọc cho biết: “Độc chất chính trong củ ấu tầu là aconitin – một alcaloid cực độc có thể gây rối loạn dẫn truyền tim: nhịp chậm, ngoại tâm thu thất, co giật, mất ý thức và có thể tử vong nhanh chóng. Đây là ca ngộ độc do dùng quá liều củ ấu tẩu, nhưng may mắn được đưa vào viện sớm và xử trí đúng phác đồ, nên bệnh nhân qua được cơn nguy kịch.”
Sau 3 giờ điều trị tích cực, tình trạng huyết động của bệnh nhân ổn định, nhịp tim trở lại bình thường, giảm dần liều thuốc chống rối loạn nhịp. Bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt, các chỉ số sinh tồn ổn định.
Hiện bệnh nhân vẫn đang được theo dõi sát tại Khoa Cấp cứu để phòng nguy cơ loạn nhịp tái phát hoặc ảnh hưởng thần kinh muộn sau ngộ độc. Theo ThS.BS Ninh Thị Ngọc, độc tố aconitin có khả năng gây ảnh hưởng kéo dài trên dẫn truyền tim, do đó, bệnh nhân dù đã qua cơn nguy kịch, nhưng vẫn cần theo dõi ít nhất 2-3 ngày.
Củ ấu tầu còn có tên khác là ấu tẩu, ô đầu, phụ tử – thường mọc ở vùng núi cao phía Bắc và các tỉnh miền núi Trung Quốc. Trong Đông y, vị thuốc này chỉ được dùng sau khi đã qua chế biến kỹ (phụ tử chế) với liều rất nhỏ để xoa bóp hoặc điều trị ngoại trú có kiểm soát. Ngược lại, củ tươi, củ sống (như bệnh nhân sử dụng) chứa hàm lượng độc chất rất cao – chỉ khoảng 2mg aconitin đã có thể gây rối loạn nhịp tim và 5mg có thể gây tử vong, tương đương với chỉ vài củ nhỏ.
Các bác sĩ khuyến cáo, tuyệt đối không tự ý mua, sắc uống hay ngâm rượu củ ấu tẩu hay bất kỳ loại thảo dược có độc tính cao nếu chưa được chế biến đúng cách. Người dân không nên tin vào các hướng dẫn truyền miệng hoặc thông tin trên mạng về “củ ấu tẩu chữa đau khớp”, bởi nhiều sản phẩm được rao bán không rõ nguồn gốc, chưa qua kiểm định chất lượng và có thể tiềm ẩn nguy cơ ngộ độc. Khi xuất hiện các triệu chứng bất thường như chóng mặt, buồn nôn, tê môi, loạn nhịp hoặc tụt huyết áp sau khi dùng bất kỳ loại thảo dược nào, cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được xử trí kịp thời.

BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ VÀ HỖ TRỢ NÂNG CAO NĂNG LỰC CHUYÊN NGÀNH TRUYỀN NHIỄM TẠI TỈNH LAI CHÂU

Trong hai ngày 22 và 23/10/2025, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương đã tổ chức hoạt động giám sát, đánh giá và hỗ trợ nâng cao năng lực chuyên ngành Truyền nhiễm cho tỉnh Lai Châu theo chương trình Chỉ đạo tuyến và Đề án 1816.

Tại buổi làm việc với Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lai Châu, ThS.BS Nguyễn Thanh Thủy – Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lai Châu cho biết: Trong nhiều năm qua, Bệnh viện luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong công tác đào tạo, chuyển giao kỹ thuật chuyên ngành Truyền nhiễm và Vi sinh. Đến nay, Bệnh viện Đa khoa tỉnh đã xây dựng được đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu ở hai lĩnh vực này; triển khai hiệu quả phòng khám quản lý ngoại trú bệnh nhân viêm gan mạn tính và thực hiện nhiều kỹ thuật chuyên sâu về vi sinh phục vụ công tác chẩn đoán, điều trị. Trong thời gian tới, Bệnh viện mong tiếp tục nhận được sự hỗ trợ, đào tạo và chuyển giao kỹ thuật từ Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương để nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ.

Phát biểu tại buổi làm việc, TS Nguyễn Tuấn Khanh – Phó Viện trưởng Viện Đào tạo và Nghiên cứu Bệnh Nhiệt đới, đại diện đoàn công tác, nhấn mạnh: Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương là bệnh viện đầu ngành về Truyền nhiễm và các bệnh nhiệt đới, đồng thời đang phát triển đa khoa với nhiều chuyên ngành sâu như Hồi sức cấp cứu, Nội soi tiêu hóa và Ngoại khoa. Trong thời gian tới, Bệnh viện sẽ tiếp tục đồng hành, hỗ trợ chuyên môn cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lai Châu, góp phần nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Cũng trong khuôn khổ chương trình, đoàn công tác đã làm việc với Trung tâm Y tế huyện Mường Tè. BSCKI Lò Thế Khánh – Giám đốc Trung tâm Y tế Mường Tè cho biết, trung tâm nằm ở khu vực vùng sâu, vùng xa, địa bàn rộng, dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có những dân tộc rất ít người (dưới 10.000 dân). Điều kiện kinh tế và nhận thức về sức khỏe của người dân còn hạn chế, trong khi trên địa bàn vẫn lưu hành một số bệnh truyền nhiễm như lao, HIV, sốt rét, sởi… Do đó, cán bộ y tế tại đây gặp nhiều khó khăn trong việc học tập, nâng cao trình độ chuyên môn.

Đại diện đoàn công tác, BSCKII Phạm Minh Tuấn – Trưởng phòng Hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, Viện Đào tạo và Nghiên cứu Bệnh Nhiệt đới cho biết, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương sẽ tiếp tục hỗ trợ đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho Trung tâm Y tế Mường Tè theo chương trình Chỉ đạo tuyến và Đề án 1816. Đồng thời, bệnh viện sẽ duy trì hình thức hỗ trợ chuyên môn trực tuyến khi Trung tâm gặp các ca bệnh truyền nhiễm nặng, phức tạp hoặc các bệnh có nguy cơ gây dịch nguy hiểm, nhằm giúp các cơ sở y tế tuyến dưới chủ động, kịp thời trong công tác điều trị và phòng chống dịch bệnh.